Khám phá tổ hợp tên lửa tàng hình siêu hạng "Iskander"
Thứ hai 15/04/2013 11:17
Tổ hợp tên lửa chiến dịch - chiến thuật (PTRC), "Iskander" đã được chế tạo trong điều kiện Hiệp ước loại trừ các loại tên lửa mang đầu đạn hạt nhân tầm trung và tầm gần vào năm 1987 (INF) và không sử dụng vũ khí hạt nhân trên chiến trường đối với hai bên tham chiến. Trong khuôn khổ các điều ước này, Liên bang Xô viết đã phát triển các tổ hợp tên lửa chiến trường với các yêu cầu cơ bản mới, chẳng hạn như: không sử dụng các đầu đạn hạt nhân và chỉ sử dụng các đầu đạn có chất nổ thông thường, yêu cầu độ chính xác cao của tên lửa. Tổ hợp này có thể kiểm soát ở tất cả (phần lớn) các giai đoạn trong quỹ đạo của tên lửa, khả năng có thể đặt các đầu đạn theo đặc thù mục tiêu lên tên lửa để tiêu diệt mục tiêu có hiệu quả cao nhất (đạn nổ phá, đạn catset, đầu đạn nhiệt áp hoặc đầu đạn xuyên bê tông), đạt cấp độ cao của quý trình tự động hóa trao đổi thông tin và điểu hành tác chiến.
Tổ hợp tên lửa phải có thể sử dụng dữ liệu từ các hệ thống dẫn đường vệ tinh toàn cầu (GLONASS, NAVSTAR), có khả năng tiêu diệt các mục tiêu chuyển động và các mục tiêu cố định có cấp độ bảo vệ cao nhất, có khả năng đốt cháy và phá hủy mục tiêu với hiệu suất cao của vụ cháy nổ (sử dụng thuốc nổ nhiệt áp), có khả năng đột phá hiệu quả những hệ thống phòng không và phòng thủ tên lửa cao cấp và hiện đại của đối phương.
Các phương tiện hỏa lực (các tổ hợp tên lửa các cấp, các trận địa triển khai các tổ hợp pháo phản lực tên lửa, pháo binh tầm xa); Hệ thống các trận địa tên lửa, pháo binh chống tên lửa đạn đạo và phòng không; Sân bay và các cụm máy bay chiến đấu, máy bay trực thăng trên mặt đất; Sở chỉ huy các bộ tư lệnh, các đơn vị và các đài, trạm trung tâm thông tin liên lạc, trinh sát tình báo điện tử (các tổ hợp radar, các đài quan sát…); Các công trình quan trọng của cơ sở hạ tầng dân sự; Các mục tiêu cơ động lớn (tầu vận tải đường bộ, đường biển), các mục tiêu có diện tích nhỏ (hầm phòng thủ, các khu hầm ngầm quân sự, các đài, trạm…) và khu vực tập trung mục tiêu quan trọng khác trong lãnh thổ đối phương.
- Tên lửa 9М723;
- Xe phóng đạn tự hành (SPU) 9P78;
- Xe vận chuyển và nạp đạn (TRV) 9T250;
- Xe chỉ huy và điều khiển hỏa lực (CSV) 9S522;
- Xe thu thập và xử lý thông tin (PIP) 9S920;
- Xe kiểm chuẩn và bảo trì bảo dưỡng tổ hợp tên lửa (MRTO);
- Xe hậu cần;
- Xe chở cơ sở vật chất vũ khí, khí tài và trang thiết bị đào tạo.
Trong giai đoạn cuối, khi tiếp cận gần mục tiêu, tên lửa được điều khiển bằng phương pháp đạo hàng quán tính, sau đó là phương pháp khóa mục tiêu tự động bằng phương pháp so sánh tương quan ảnh mục tiêu bằng bộ phận tự dẫn quang học trên đầu đạn. Nguyên lý làm việc của hệ thống tự dẫn quang học là, bộ phận quang học sẽ chụp ảnh địa hình khu vực mục tiêu, máy tính trên đầu đạn sẽ so sánh ảnh địa hình khu vực mục tiêu với các hình ảnh mẫu tiêu chuẩn được đưa vào bộ nhớ máy tính trước khi phóng đạn. Từ đó máy tính xác định vị trí mục tiêu và điều chỉnh đường đạn. Đầu dẫn quang học có độ cảm biến ánh sáng tự nhiên rất cao, có khả năng chống nhiễu điện từ của các phương tiện, trang thiết bị tác chiến điện tử, cho phép có thể đánh trúng mục tiêu ngay cả ban đêm không có trăng và không có các nguồn chiếu sáng mục tiêu tự nhiên khác với sai số ± 2 m.
- Đầu đạn cassette với các đạn thứ cấp nổ phá mảnh phi tiếp xúc;
- Đầu đạn cassette với các đầu đạn thứ cấp nổ lõm và phá mảnh;
- Đầu đạn cassette có lắp các bộ phận tự tìm mục tiêu;
- Đầu đạn сassette có thiết bị kích nổ từ xa;
- Đầu đạn nổ phá mảnh thông thường;
- Đầu đạn nổ phá và gây cháy (đạn tecmit hoặc đầu đạn nhiệt áp);
- Đầu đạn xuyên phá bê tông.
Hệ thống điều khiển tự động dựa trên cơ sở thiết kế một tổ hợp trang thiết bị điều hành thống nhất cho tất cả các cấp chỉ huy và được lắp đặt trên khung gầm của dòng xe KAMAZ. Thiết lập cấp độ chỉ huy, kiểm soát, truyền thông và điều hành tác chiến (lữ đoàn, tiểu đoàn, khẩu đội) được thực hiện bởi phân cấp phần mềm ứng dụng. Để đảm bảo việc trao đổi thông tin trong tình huống phóng đạn, trong xe điều khiển lắp đặt thêm thiết bị điều hành tác chiến và đường truyền thông tin. Trao đổi thông tin có thể được thực hiện trên hai loại kênh (mã hóa và không mã hóa thông tin).
"Iskander" được tích hợp với các hệ thống tác chiến khác nhau như hệ thống trinh sát và điều hành tác chiến. Thông tin về mục tiêu được truyền theo các kênh thông tin vệ tinh, kênh của máy bay trinh sát và kênh thông tin của máy bay không người lái trên không (kiểu máy bay không người lái "Reis-D") về trạm thu thập và xử lý thông tin, thiết lập phần tử bắn (PIP). Hệ thống căn cứ vào nhiệm vụ sẽ tính toán quỹ đạo bay cho các tên lửa đang được chuẩn bị và cung cấp thông tin tham chiếu mục tiêu (không ảnh, tọa độ ..) cho các tên lửa với đầu tự dẫn quang ảnh (OGSN), sau đó thông tin được truyền phát bằng sóng radio đến xe chỉ huy, tham mưu tác chiến (CSV) của tiểu đoàn và khẩu đội, từ đó truyền đến - xe bệ phóng tên lửa. Lệnh phóng tên lửa có thể được hình thành từ xe chỉ huy điều hành tác chiến tiểu đoàn, hoặc có thế đến từ cấp chỉ huy và điều hành tác chiến của lực lượng pháo binh cấp cao hơn.
Xe kỹ thuật chuẩn chỉnh và bảo trì bảo dưỡng (MRTO) được đặt trên khung gầm của dòng xe "KAMAZ" và được sử dụng để kiểm tra, điều chỉnh thiết bị trong tên lửa khi tên lửa đang nằm trên các xe vận tải và nạp đạn TLV (cũng như trong các thùng chứa container), kiểm tra các trang thiết bị, bộ phận và chi tiết trong cơ số các phụ tùng thay thế, bảo trì, bảo dưỡng và sửa chữa nhỏ tên lửa bởi các thành viên trên xe MRTO. Khối lượng thân xe - 13500 kg, thời gian triển khai - 20 phút, thời gian trang thiết bị thân xe kiểm tra hết quy trình kiểm tra các bộ phận thiết bị tên lửa - 18 phút, kíp chuyên viên bảo trì, sửa chữa - 2 người.
Xe hậu cần và đảm bảo sinh hoạt đời sống của khẩu đội được sử dụng để các kíp trắc thủ (có thể đến 8 người) ăn nghỉ cùng một lúc.
Thông số kỹ thuật chung | |
Tầm bắn, km: | |
Gần nhất | 50 |
Tầm bắn xa nhất, max | 280 |
Độ chính xác (КVО), m: | |
Không lắp hệ thống tự dẫn | 30-70 |
Lắp hệ thống tự dẫn | 5-7 |
Số lượng tên lửa, quả: | |
Trên xe bệ phóng đạn | 2 |
Trên xe vận tải | 2 |
Thời gian cần thiết phóng đạn, phút: | |
Đang ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu | Không lớn hơn 4 |
Từ hành tiến | Không lớn hơn 16 |
Dải nhiệt độ hoạt động, °С | ±50 |
Khả năng phóng đạn trên độ cao so với mặt nước biển, m | Đến 3000 |
Tên lửa | |
Loại | Sử dụng nhiên liệu rắn, một tầng phóng |
Khối lượng tên lửa khi phóng, kg | 3800 |
Khối lượng đầu đạn, kg | 480 |
Chiều dài, mm | 7200 |
Đường kính lớn nhất, mm | 950 |
Xe tự hành phóng tên lửa | |
Khối lượng tổng thể, tấn | 42 |
Khối lượng tải trọng hiệu dụng, tấn | 19 |
Tốc độ tối đa, km/h: | |
Trên đường nhựa | 70 |
Trên đường đất | 40 |
Dự trữ hành trình, km | 1000 |
Kíp xe, người | 3 |
Xe chỉ huy điều hành tác chiến | |
Số lượng vị trí công tác tự động điều hành tác chiến, chỗ. | 4 |
Tầm xa hoạt động của thiết bị thông tin, km: | |
Tại chỗ | 350 |
Cơ động | 50 |
Thời gian các trắc thủ tính toán thực hiện nhiệm vụ, s | Đến 10 |
Thời gian truyền đạt mệnh lệnh chiến đấu, s | 15 |
Số lượng các kênh truyền thông | 16 |
Tốc độ truyền (nhận) thông tin, KB/s | 16 |
Thời gian triển khai trang thiết bị(thu hồi trang thiết bị (triển khai anten/thu hồi anten), phút | до 30 |
Thời gian hoạt động liên tục, giờ | 48 |
Trạm thu thập và xử lý thông tin mục tiêu | |
Vị trí công tác tự động hóa số liệu, chỗ. | 2 |
Thời gian xác định tọa độ mục tiêu, phút | 0,5 đến 2 |
Thời gian chuyển tải thông tin chỉ thị mục tiêu. phút | 1 |
Thời gian hoạt động liên tục, giờ | 16 |
Iskander-M – phiên bản cho các lực lượng vũ trang liên bang Nga, 2 bệ phóng tên lửa trên xe bệ phòng, tầm bắn tính từ các quy định cho "Iskander-E" - 280 km, đến 500 km. Không có quy định cụ thể loại đầu đạn (khối lượng đầu đạn)để đạt được tầm bắn đó.
Iskander-K — phiên bản cái tiến có sử dụng tên lửa hành trình, có tầm bắn là 500 km, đầu đạn nặng 480 kg. Tên lửa hành trình R- 500 có thể bay đến 2000 km
Iskander-E — phiên bản xuất khẩu, có tầm bắn đến 280 km, khối lượng đầu đạn 480 kg, đáp ứng những yêu cầu về kiểm soát công nghệ chế tạo tên lửa, chống copy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét