Thứ Hai, 27 tháng 8, 2012

Bệnh 'thừa thầy thiếu thợ' ở Hàn Quốc - VnExpress

http://vnexpress.net/gl/the-gioi/cuoc-song-do-day/2012/08/benh-thua-thay-thieu-tho-o-han-quoc/
Thứ hai, 27/8/2012, 15:18 GMT+7

Bệnh 'thừa thầy thiếu thợ' ở Hàn Quốc

Song A-Hyun từng tự tin rằng cô sẽ nối gót cha, tốt nghiệp trường đại học danh tiếng nhất, làm việc ở một công ty hàng đầu và chẳng mấy chốc mà sẽ lên như diều.
> Những gia đình 'ngỗng hoang' ở Hàn Quốc
> Hàng tỷ đôla đổ vào học thêm ở châu Á

Ngày càng có nhiều người trẻ Hàn Quốc có trình độ cao phải đối mặt với viễn cảnh việc làm ảm đạm. Ảnh: AFP

Tuy nhiên, giấc mơ của cô cử nhân 23 tuổi đang dần bị lung lay. Một năm qua, Song đã gửi hơn 40 hồ sơ xin việc trước khi ra trường vào tháng này, nhưng tất thảy đều bị từ chối.

Tốt nghiệp ở trường đại học hàng đầu dành cho nữ giới mang tên Ewha, điểm trung bình cao, từng được cử đi Hong Kong theo chương trình trao đổi sinh viên, giao tiếp tiếng Anh như gió và hai chứng nhận thực tập sinh dường như vẫn không đủ.

"Mọi người đều có điểm trung bình khá cao, điểm thi tiếng Anh cũng không kémđều đã thực tập một đến hai nơi, do đó hồ sơ xin việc của tôi chẳng có gì đặc biệt", Song nói. "Tôi đã nỗ lực hết sức để có được những thành tích ấy, nhưng có quá nhiều người như tôi và quá ít công việc cho chúng tôi".

Song là một trong số ngày càng nhiều những người trẻ Hàn Quốc có trình độ cao nhưng lại phải đối mặt với viễn cảnh việc làm ảm đạm do thừa thải cử nhânđà tăng trưởng kinh tế chậm lại sau nhiều thập kỷ phát triển với tốc độ chóng mặt.

Sự chú trọng đến giáo dục của người Hàn Quốc từ lâu đã được ví như nền tảng đưa quốc gia này từ một nước lạc hậu sau chiến tranh trở thành cường quốc kinh tế toàn cầu. Trẻ em dành cả thời thơ ấu của mình để chạy đua vào các trường đại học uy tín hoặc ít nhất là một số trường cao đẳng nhất định. Đây được xem là yếu tố quan trọng quyết định thành bại, vị trí xã hội sau này, thậm chí là hôn nhân, của mỗi người.

Nhóm trường đại học được gọi là SKY, gồm đại học quốc gia Seoul, đại học Hàn Quốc và Yonsei, là những trường danh giá nhất. Tuy nhiên, với tỷ lệ thất nghiệp sau khi ra trường ngày càng tăng, chính phủ đã phải tổ chức một chiến dịch khuyến khích giới trẻ bỏ qua con đường học lên đại học hoặc cao đẳng, đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp tìm kiếm nguồn nhân lực vừa tốt nghiệp trung học.

Khoảng 72% học sinh tốt nghiệp cấp ba theo học ở các trường đại học, cao đẳng trên khắp Hàn Quốc năm ngoái, giảm nhẹ so với 83,8% năm 2008 nhưng vẫn là một trong những tỷ lệ cao nhất thế giới. Tuy nhiên, những công việc lý tưởng đều đang thu hẹp cánh cửa khi sự phát triển nhanh chóng nhường chỗ cho sự phát triển cầm chừng và ngày càng nhiều người trẻ từ chối các công ty vừa và nhỏ trả lương thấp.

Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak đã nhiều lần yêu cầu các sinh viên giảm tiêu chuẩn và tìm kiếm công việc ở những công ty ít danh tiếng hơn, cũng như phê duyệt nhiều chương trình ủng hộ các trường dạy nghề.

" 'Lạm phát giáo dục' quá đà ở nước ta đang gây ra nhiều vấn đề về kinh tế và xã hội", ông Lee nói hồi đầu năm nay. Ông thậm chí còn đề xuất lập một hạn ngạch tuyển dụng ở các cơ quan chính phủ cho các học sinh tốt nghiệp cấp ba, một phương pháp dự kiến khuyến khích nhiều bạn trẻ tìm việc làm luôn sau khi học xong cấp ba, thay vì thi vào đại học mà không có mục tiêu rõ ràng.

Tỷ lệ thất nghiệp chính thức ở Hàn Quốc là khoảng 3%, nhưng tỷ lệ số người từ 25 đến 29 tuổi không việc làm lại cao gấp hai lần. Trong quý hai, số cử nhân thất nghiệp, ước tính 373.000 người, đã lần đầu tiên vượt qua số học sinh cấp ba không có việc làm sau hơn 10 năm. Thậm chí tại trường đại học quốc gia Seoul, năm 2011, gần 30% người có bằng tiến sĩ vẫn thất nghiệp, tăng gấp đôi so với cách đó hai năm.

Một cô gái đang đọc các thông báo tuyển dụng ở một trường đại học dành cho nữ giới của Seoul. Ảnh: AFP

Đáp lại lời kêu gọi của chính phủ, các công ty lớn đang tuyển dụng hoặc hứa hẹn tuyển dụng thêm các học sinh đã tốt nghiệp trung học và cất nhắc họ lên những vị trí cao hơn. Samsung năm nay tuyển khoảng 700 học sinh tốt nghiệp cấp ba vào các công việc văn phòng. Tập đoàn SK cam kết tuyển dụng 2.100 vị trí. Các công ty khác như LG hay Hyundai Motor tiết lộ kế hoạch thu nhận các học sinh tốt nghiệp trung học với số lượng lớn hơn trước đây.

"Có nhiều nhân lực trình độ cao là một điều đáng mừng, nhưng ở Hàn Quốc, số lượng này lại vượt quá số công việc phù hợp dành cho họ". Ki Hi-Sam, một nhà nghiên cứu thuộc Viện Phát triển Hàn Quốc nói. "Các tập đoàn như Samsung, LG hay Hyundai chỉ chiếm 10% thị trường việc làm của chúng ta, nhưng hỏi bất kỳ sinh viên đại học nào, họ cũng đều nói muốn làm việc ở các công ty hàng đầu và không thể kém hơn thế".

Bộ Lao động Hàn Quốc trong một báo cáo gần đây cảnh báo rằng các cử nhân đại học, cao đẳng sẽ đối mặt với sự thiếu hụt 500.000 việc làm vào năm 2020, trong khi số việc làm cho học sinh tốt nghiệp trung học lại dư thừa 320.000. Bộ kêu gọi nhiều nỗ lực hơn nữa nhằm đưa các nhân công trẻ vào thị trường việc làm sớm, cắt giảm số lượng cử nhân và giảm phân biệt trong việc trả lương và thăng tiến đối với nguồn nhân lực tốt nghiệp trung học.

Đến nay, những cử nhân như Song vẫn đang chìm trong tuyệt vọng.

"Nếu tôi có con, tôi sẽ không bao giờ bắt chúng phải đi học đại học như bố mẹ tôi từng làm nữa. Tôi sẽ để chúng xác định niềm đam mê thực sự trước, thay vì bắt chúng đi theo lối mòn", cô gái 23 tuổi nói. "Nhưng việc kết hôn và có con dường như là một điều xa xỉ, bất khả thi, cho đến khi tôi tìm được việc làm".

Anh Ngọc (theo AFP)

Thứ Tư, 22 tháng 8, 2012

Những điều cần biết khi đến với Portsmouth

Những điều cần biết khi đến với Portsmouth

Xin chào tất cả các bạn đang và sẽ trở thành Pompeyer!

Chúng tôi rất tin rằng khi đã quyết định và chấp nhận con đường du học, các bạn đều là những cá nhân nhiệt huyết và đam mê, dù là học thạc sỹ hay cử nhân thì đó vẫn là một chặng đường dài, việc chuẩn bị cho một chuyến đi như vậy là một thử thách đầu tiên đón chờ bạn ngay trước khi lên máy bay. Vậy nên, hãy để chúng tôi giúp bạn một số tips quan trọng nhé.

Chuẩn bị hành lý:

- Một ít thuốc và đồ dùng cá nhân (sữa tắm, dầu gội đầu, etc.) cho những ngày đầu tiên.

- Bát đũa, gia vị, knor và một chiếc nồi cơm điện loại bé. Nếu bạn ko đủ cân để mang cũng không sao vì rice cooker ở UK bán cũng rất rẻ (khoảng 10 – 20 bảng) tuy nhiên chất lượng thì ko được bằng ở nhà (ý kiến cá nhân ^^ ). Một chút gì đó đặc trưng nơi bạn như ô mai, ruốc tôm, hay mì ô-ma-chi. Ngoài ra các loại gia vị từ loại phổ biến (mì chính, mắm tôm,…) cho đến đặc hiệu (quế hồi làm phở, bột xa xíu,…) vẫn được bày bán ở các quàn tầu nên các bạn cũng không phải lo rằng mình sẽ không được ăn món ăn ưa thích của mình nữa

- Bạn nên mang theo laptop nếu có thể, hoặc mua laptop tại UK cũng rất dễ dàng. Đồ dùng học tập như máy tính, một vài cây bút và một ít giấy học cũng nên mang nhưng không phải là bắt buộc vì các bạn cũng có thể dễ dàng mua được ở Portsmouth.

- Bạn nên mang theo một ít quần áo cho chuyến bay và hanh trình tiếp theo – quần áo mùa đông có thể mua ờ UK với giá thành không quá đắt nếu bạn không mua được ở nhà. Đừng quên mang theo ảnh của gia đình và bạn bè, bạn cũng có thể mang theo một vài đồ lễ phục dân tộc cho các sự kiện giao lưu.

- Bạn nên có khoảng 300 bảng Anh trong túi trước khi lên đường sang UK, số tiền này sẽ được dùng chi trả cho chi phí hải quan, vé tàu và các khoản đột xuất khác. Khi sang UK bạn nên hỏi trường giấy để mở tài khoản ngân hàng, nạp tiền mặt bạn mang và sử dụng. Thẻ ngân hàng rất tiện lợi và an toàn.

- Ảnh hộ chiếu là rất cần thiết vì bạn sẽ cần dùng cho việc đăng ký rất nhiều.

Đi lại từ sân bay Healthrow đến Portsmouth:

- Bạn có thể đi Coach (kiểu xe bus liên tỉnh) từ Terminals của Airport đến thẳng Portsmouth Harbour (mất khoảng 2 tiếng đến 2 tiếng rưỡi).

- Bạn có thể đi train Piccadilly Line vào underground của London (khoảng 1 tiếng) rồi chuyển tại London Waterloo hoặc London Victoria station để đi đến Portsmouth & Southsea hoặc Portsmouth Harbour. (1 tiếng 40 phút)

- Nếu bạn cẩn thận hơn thì có thể đi taxi (cab) đến thẳng Portsmouth – lưu ý là khá đắt khoảng 40 đến 100 bảng.

- Nếu bạn sử dụng dịch vụ pick up của trường thì rất thoải mái ko cần phải lo lắng đến những vấn đề trên.

Từ sân bay Healthrow đến Portsmouth nói chung thời gian đi lại rơi vào khoảng 3 tiếng.

Rât quan trọng khi mới sang mọi người nên có một số điện thoại để liên lạc. Mua Sim điện thoại rất đơn giản, và mình đoán mới sang chắc bạn cũng sẽ có sẵn điện thoại. Một là để liên lạc lúc mới sang, hai là để gọi điện về báo tin cho người thân

Portsmouth luôn hân hoan đón chào những người bạn mới, chính bạn sẽ là người làm nên sự khác biệt và mang đến những làn gió mới cho nơi đây. Tạm thời thế đã, hẹn gặp bạn ở Portsmouth và mong bạn sớm hòa nhập, vui vẻ.

Hẹn gặp một ngày không xa.

Thứ Ba, 21 tháng 8, 2012

Hành trình tìm chiếc iPad bị trộm tại nhà Steve Jobs

http://sohoa.vnexpress.net/tin-tuc/doi-song-so/hanh-trinh-tim-chiec-ipad-bi-trom-tai-nha-steve-jobs-1860217.html

Hành trình tìm chiếc iPad bị trộm tại nhà Steve Jobs

Kết nối Internet chính là trợ thủ đắc lực giúp cảnh sát Palo Alto (Mỹ) lấy lại iMac, iPad, iPod bị kẻ trộm cuỗm khỏi dinh cơ của cố CEO Apple.

Ngày 17/7, nhà của Steve Jobs bị kẻ trộm đột nhập và lấy đi những món đồ với tổng trị giá 60.000 USD. Cảnh sát Palo Alto và nhóm chuyên điều tra về các vụ phạm pháp liên quan đến máy tính REACT đã đề nghị Apple hợp tác "phá án".

Đối chiếu số serie của các thiết bị bị đánh cắp trong hệ thống của Apple, nhóm REACT phát hiện một trong những chiếc iPad mất tích đã kết nối vào máy chủ Apple ngay sau vụ đột nhập.

iPad này được cài lại hệ điều hành thông qua một địa chỉ IP trong mạng AT&T vào khoảng 7h22 đến 7h31 ngày 18/7. Tiếp đó, họ lại nhận thấy một iPad khác kết nối cũng từ địa chỉ IP đó vào khoảng 8h ngày 20/7. Chiếc iPad thứ hai này không nằm trong diện bị đánh cắp, nhưng thông tin tài khoản iTunes đã cung cấp cho các thanh tra một địa chỉ ở Alameda, phía đông vịnh San Francisco. Địa chỉ này được một người có tên Kariem McFarlin sử dụng để đăng ký dịch vụ Internet của AT&T.

Ba chiếc iPad bị đánh cắp khỏi căn hộ của cố CEO Apple.

Trong 5 ngày tiếp theo, cảnh sát ghi lại mọi hoạt động trên tài khoản iTunes của McFarlin. Trước khi bắt giữ, một số điều tra viên tới địa chỉ ở Alameda và thực hiện bước kiểm tra cuối cùng: họ quét tín hiệu Wi-Fi để xem mạng Internet không dây tại nhà McFarlin có được bảo vệ bằng mật khẩu hay không (vì nếu không cài password, vụ việc sẽ trở nên phức tạp do có thể ai đó khác đã dùng chùa tín hiệu Wi-Fi này để kết nối iPad). Sau khi nhận thấy Wi-Fi được mã hóa, cảnh sát kết luận rằng nó chỉ được sử dụng bởi chính chủ hợp đồng Internet hoặc những người được cấp quyền.

Ngày 2/8, cảnh sát ập vào căn hộ của Kariem McFarlin và tìm thấy chiếc iMac bị ăn trộm đặt trên bàn ăn trong bếp. Các thiết bị còn lại được thu từ những người có mối liên quan với McFarlin.

Người này sau đó khai nhận đã trèo qua tường vào nhà Steve Jobs và phát hiện một chìa khóa sơ cua ở trong garage rồi ăn trộm 2 máy iMac, 3 iPad, 3 iPod, một Apple TV, một dây chuyền, khuyên tai kim cương và vài món đồ khác.

McFarlin đã viết thư xin lỗi vì hành vi ăn trộm và giải thích rằng mình đang quá túng thiếu. Người này có thể sẽ phải đối mặt với án phạt 7 năm tù.

Thứ Năm, 16 tháng 8, 2012

’Diễn viên trẻ sẵn sàng bán thân cho đạo diễn’

http://bee.net.vn/channel/3521/201208/dien-vien-tre-san-sang-ban-than-cho-dao-dien-1845320/

'Diễn viên trẻ sẵn sàng bán thân cho đạo diễn'

16/08/2012 21:13:06
Biên kịch nổi tiếng Trung Quốc Triệu Lệ Hoa hé lộ về 'tảng băng chìm' trong làng giải trí vốn đầy rẫy thị phi.

Nhà văn kiêm biên kịch nổi tiếng của Trung Quốc Triệu Lệ Hoa mới đây gây chú ý cho công chúng khi tiết lộ một sự thật: "Rất nhiều các diễn viên trẻ thế hệ 9X sẵn sàng bán mình cho đạo diễn để có được một cơ hội bước chân vào làng giải trí".
 
Tham gia một buổi trò chuyện trên truyền hình, Lệ Hoa đã phơi bày một góc độ khác của thế giới showbiz khi đưa ra ví dụ điển hình: một diễn viên trẻ của đoàn phim Tân Hồng Lâu Mộng để đổi lấy vai diễn đã chủ động đề nghị nhà sản xuất "giúp đỡ" mình.
 
Nhà văn này còn nhấn mạnh, không riêng gì với các nghệ sĩ trẻ của Tân Hồng Lâu Mộng, các chàng trai, cô gái chân ướt chân ráo khát khao được dấn thân vào "nghệ thuật" đều vui vẻ chấp nhận quy định bất thành văn này - đó chính là luật ngầm trong thế giới giải trí.
Biên kịch Triệu Lệ Hoa nhấn mạnh, rất nhiều diễn viên trẻ hiện nay sẵn sàng bán thân.
Phát biểu của Triệu Lệ Hoa ngay lập tức thu hút đông đảo sự chú ý của khán giả. Một diễn viên từng góp mặt nhiều năm trong showbiz chia sẻ với báo chí, kỳ thực, "luật bất thành văn" tồn tại, nhưng chấp nhận nó hay không tùy thuộc vào người nghệ sĩ. Ngoài việc tự lực vươn lên, để tìm kiếm một vai chính, vượt qua các đối thủ mà không cần mất quá nhiều thời gian, diễn viên có một cách dễ dàng hơn, đó là nhờ cậy một thế lực giàu có nào đó chống đỡ.

Trên thực tế, những thông tin mà Triệu Lệ Hoa đưa ra không còn xa lạ với công chúng. Cách đây không lâu, nữ đạo diễn Đoàn Hồng đã tiết lộ với báo chí, một diễn viên nam chủ động tìm cách tiếp cận và mong được bà giúp đỡ để lấy vai chính trong tác phẩm.
 
Ví dụ khác, đạo diễn Hàn Xích Phi trực tiếp đưa ra những dòng tin nhắn, tấm ảnh khỏa thân mà một diễn viên nữ gửi mình, kèm theo đó là đề nghị... xin vai. Tất cả những diễn viên trẻ này đều có một điểm chung: khát khao tỏa sáng, và chấp nhận đổi lấy nó bằng mọi giá.
Để đổi vai diễn, không ít cô gái chọn con đường bán thân
Chiều ngược lại, không ít đạo diễn cũng là "con sâu bỏ rầu nồi canh", làm "tảng băng chìm" của làng giải trí càng thêm nặng. Từ Hoài Ngọc, Tiết Lệ Na... rất nhiều các cô gái xinh đẹp đã lên tiếng tố cáo đạo diễn gạ tình, kèm theo đó là những phần thưởng tương xứng: vai diễn (show diễn) mới, tiền bạc...
 
Trong khi không ít người chấp nhận đánh đổi, nhiều nghệ sĩ trẻ đã dũng cảm lên tiếng tố cáo, để rồi không ít chuốc rắc rối vào mình. Nhiều người trong số đó, do không chịu nổi áp lực đã tìm đến cái chết. Nữ diễn viên Điền Lệ mới đây chia sẻ một sự thật gây bất ngờ: "90% nghệ sĩ xứ Đài từng nhận tiền để đi ăn cùng ai đó hoặc thậm chí là ngủ cùng họ. Nhóm môi giới bám chặt lấy tầng lớp doanh nhân, các chính trị gia quyền lực và ra sức cung cấp gái đẹp... Trong khi các cô gái trẻ lại chờ mong cơ hội, thứ mà nhóm người ấy có thể cho họ... Vòng luẩn quẩn này không bao giờ thay đổi, những cái chết, những vụ tự tử cũng không thay đổi được gì... ".

Một nhân vật làm đại lý môi giới tại Đài Loan (đơn vị giới thiệu nghệ sĩ với các cá nhân, doanh nghiệp... ) cho biết, việc sao nhận một mức cát-xê nào đó để đi ăn tiệc là điều rất bình thường của giới nghệ, nhưng việc đẩy "bữa tối" đi đến đâu hoàn toàn phụ thuộc vào người nghệ sĩ. Kể cả Củng Lợi, Chương Tử Di, Lâm Chí Linh... đều có một mức giá cụ thể, nhưng đó hoàn toàn là giao dịch đúng đắn, "đôi bên đều có lợi" mà thôi.
(Theo Ngôi Sao/ Ảnh: Sina)

Tiết lộ mẹo nghi binh ở Vùng tuyệt mật 51

http://bee.net.vn/channel/4961/201208/Tiet-lo-meo-nghi-binh-o-Vung-tuyet-mat-51-1845277/

Tiết lộ mẹo nghi binh ở Vùng tuyệt mật 51

16/08/2012 14:23:40
- Các chuyên gia Mỹ từng làm việc tại Vùng 51 tiết lộ những kỹ thuật đơn giản đến bất ngờ được dùng để đánh lạc hướng vệ tinh do thám.

Kéo ra, kéo vào

Cục Tình báo Mỹ (CIA) đã tạo ra Vùng 51 vào năm 1955 để thử nghiệm và phát triển các dự án tối mật trong quân đội Mỹ ở vùng sa mạc hẻo lánh Nevada. Hơn 50 năm sau, căn cứ vẫn tồn tại một cách lặng lẽ và không xuất hiện trên bản đồ nước Mỹ.

Trong thập kỷ 50 và 60, Vùng 51 chính là trung tâm của dự án OXCART, dự án chế tạo thế hệ kế tiêp cho máy bay gián điệp U-2. Được dự kiến là máy bay không thể phát hiện khi đang giám sát và thu thập thông tin, OXCART được giữ bí mật ngay từ khi nó được thử nghiệm trên mặt đất ở Vùng 51.

Nhân viên Vùng 51 phát hiện ra rằng, các vệ tinh do thám của Liên Xô vẫn thường xuyên xuất hiện trên bầu trời Nevada. Các cơ quan tình báo Mỹ đã cung cấp cho Vùng 51 những thông tin đặc biệt quan trọng. T.D.Barnes, cựu chuyên gia máy bay siêu thanh tại Vùng 51 cho biết: "Vào những cuộc họp an ninh buổi sáng, họ đưa cho chúng tôi bảng phân công của các vệ tinh mà Liên Xô triển khai. Chúng tôi biết được lịch trình chính xác như khi nào thì các vệ tinh sẽ tới. Thậm chí, chúng tôi còn biết đó có phải là vệ tinh hồng ngoại không và là loại nào".

Để thử nghiệm khả năng tàng hình của máy bay nên các nguyên mẫu của OXCART được thử nghiệm ở bên ngoài. Ông Barnes cho biết họ phải sử dụng những nhà kho chứa máy bay theo chiến thuật "báo động và ẩn trốn". "Nếu một chiếc máy bay ở bên ngoài trong khi vệ tinh tới tầm nhìn, nó sẽ được đưa vào trong ngay lập tức (đúng là mẹo vặt thật, vì còn giải pháp nào nữa đâu, chả lẽ vặt trụi lá rừng để phủ lên máy bay :D)".

Cựu quản lí cung ứng của Vùng 51 Jim Freedman cho biết thêm: "Điều đó làm cho công việc trở nên vô cùng khó khăn. Vừa bắt đầu làm việc trên máy bay đã phải cho nó chạy vào bên trong nhà kho rồi cứ thế kéo ra kéo vào - tình trạng đó khá là phiền hà".

Máy bay do thám A-12 được thử nghiệm tại Vùng 51 vào cuối những năm 1950.

Tạo mô hình giả

Sau này, ngay cả chiến thuật "báo động và ẩn trốn" cũng vẫn không đủ. Các điệp viên nắm được thông tin rằng Liên Xô đã có được bản vẽ của một chiếc OXCART nhờ vào vệ tinh hồng ngoại.

Vì chiếc máy bay được đặt ở sa mạc nóng nực nên bóng của nó đã tạo thành một vùng râm mát. Vùng này có thể được xác định bằng tia hồng ngoại cho dù chiếc máy bay đã được chuyển vào trong kho. "Giống như là ở bãi đỗ xe vậy, sau khi tất cả các ô tô đi khỏi đó, bạn vẫn có thể biết được bao nhiêu chiếc từng đỗ nhờ hồng ngoại vì sự khác biệt về nhiệt độ của các vùng trên mặt đất", Barnes nói.

Để đối phó với vệ tinh hồng ngoại, các nhân viên Vùng 51 đã xây dựng những chiếc máy bay giả bằng bìa các-tông và vật liệu khác để tạo ra bóng râm nhằm đánh lạc hướng các nhận định của Liên Xô. Những chiếc máy bay giả cũng sẽ được đưa ra khỏi tầm nhìn trước khi vệ tinh xuất hiện. Đôi khi, các nhân viên còn sử dụng lò sưởi để tạo hiện trường như máy bay vừa hạ cánh. "Chúng tôi thực sự đã chơi với những vệ tinh hồng ngoại ấy", ông Barnes nhớ lại.

Ngày 29/9/1995, sự tồn tại của Vùng 51 đã được khẳng định. Trong khoảng 2.850 các chuyến bay thử nghiệm tối mật, người ta từng chứng kiến một chiếc máy bay có hình dạng kỳ lạ: Mach-3. Ngay cả những phi công dân dụng hay những chuyên gia điều khiển cũng không thể nhận biết được chiếc máy bay này. Có lẽ, Mach-3 đã phần nào reo rắc tin đồn liên quan tới các vật thể bay không xác định (UFO) ở Vùng 51.

Phương Thanh (Theo National Geographic)

Định giá công nghệ - Kỳ 5: Theo dòng tiền khấu hao

http://www.dinhgia.com.vn/?artid:1386:Dinh-gia-cong-nghe---Ky-5:-Theo-dong-tien-khau-hao.html

Cập nhật: 15/09/2009 12:47

Định giá công nghệ - Kỳ 5: Theo dòng tiền khấu hao

Khi thương lượng các điều khoản trong hợp đồng chuyển giao, sẽ rất có lợi nếu các bên ước tính được dòng thu nhập tương lai của công nghệ và chuyển đổi được thành giá trị hiện tại. Từ đó, có thể định giá được hợp đồng chuyển giao và xác định được chiến lược chuyển giao ưu việt nhất.

Trong phương pháp tính toán này, dòng tiền được xác định là dòng tiền thực, nghĩa là khoản chênh lệch giữa dòng tiền thu được và dòng tiền chi phí. Các số liệu cần để tính giá trị hiện tại bao gồm: tổng thu nhập thực; thời gian trả phí và mức độ rủi ro.

- Tổng thu nhập thực: bao gồm bất kỳ khoản phí nào đã được trả trước cộng với dòng phí kỳ vụ được ước tính trong tương lai, trừ đi các chi phí ký kết hợp đồng, tiến hành chuyển giao công nghệ, hỗ trợ bên mua công nghệ... Thu nhập dự tính có thể được tính dựa theo phương pháp phân tích kinh tế và các chi phí cần phải ước tính trên cơ sở các điều khoản thoả thuận trong hợp đồng chuyển giao. Độ chính xác và lợi ích sử dụng của phương pháp định giá theo giá trị hiện tại sẽ phụ thuộc rất nhiều vào độ chính xác của các ước tính này. Việc tiến hành nghiên cứu thị trường cũng như con số dự tính bán ra trong tương lai phải tương đối chính xác.

- Thời gian trả phí: các khoản phí trả ban đầu rõ ràng có giá trị hiện tại cao hơn so với các khoản phí kỳ vụ trong tương lai, được dự tính sẽ trả trong tương lai xa và xa hơn, là các khoản phí có giá trị hiện tại nhỏ hơn.

- Mức độ rủi ro: cần ước tính phí sẽ thanh toán trong tương lai. Tỷ lệ khấu trừ được chọn trên cơ sở ước tính chi phí sẽ thanh toán trong tương lai và mức độ rủi ro. Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro bao gồm độ chính xác trong ước tính dòng tiền trả, khả năng của bên nhận chuyển giao... Các đầu tư rất ít rủi ro, như trái phiếu Chính phủ Mỹ, có thể có tỷ lệ khấu trừ thấp là 6%, rủi ro càng cao thì tỷ lệ khấu trừ càng lớn.

Khi đã biết ba thông tin trên, việc tính giá trị hiện tại không khó. Theo đó, giá trị hiện tại của dòng tiền tương lai có thể được tính theo các bước và các công thức sau:

1. Trước tiên, ước tính các dòng tiền, ví dụ cho 5 năm đầu tiền sử dụng một trong số các phương pháp định giá như định giá theo thị trường, phương pháp chia sẻ lợi nhuận, định giá theo chi phí, phương pháp phân tích kinh tế đã được đăng trong các số báo trước.

2. Sau đó, chọn tỷ lệ khấu trừ trên cơ sở mức độ rủi ro liên quan đến sự đầu tư mạo hiểm. Tất cả các rủi ro, bao gồm chi phí cơ hội, trượt giá (lạm phát), và rủi ro mạo hiểm đều phải được tính đến. Đối với các công nghệ mới ở các giai đoạn phát triển đầu tiên, thường áp dụng tỷ lệ khấu trừ 35%, trong khi đối với những đầu tư an toàn hơn thì tỷ lệ khấu trừ sẽ thấp hơn.

3. Tính giá trị hiện tại của dòng tiền trong 5 năm đầu tiên, sử dụng công thức:

V = Y0 + Y1/(1+D)1 + Y2/(1+D)2 + Y3/(1+D)3 + Y4/(1+D)4 + Y5/(1+D)5

Trong đó:V = giá trị; Y0 = dòng tiền trong năm thứ nhất; Y1 = dòng tiền trong năm thứ hai; Y2 = dòng tiền trong năm thứ ba; Y3 = dòng tiền trong năm thứ tư; Y4 = dòng tiền trong năm thứ năm; D = tỷ lệ khấu trừ được chọn.

4. Ước tính dòng tiền sau năm thứ 5 theo công thức trên sẽ không chính xác, do đó sử dụng công thức dưới đây để ước tính dòng tiền cho các năm còn lại sau năm thứ 5. Ước tính tỷ lệ tăng trưởng G (ví dụ là 10%) cho tất cả các năm sau đó và áp dụng để tính dòng tiền cho năm thứ năm (Y4). Giá trị hiện tại của dòng tiền trong các năm cuối cùng T sẽ được tính bằng công thức sau:

T = [Y4 x (1+G)]/[(D-G)x(1+D)5]

Lưu ý: D và G được biểu hiện ở dạng số thập phân (ví dụ, 35% được viết là 0,35).

5. Giá trị hiện tại (PV) là tổng của hai giá trị trên: PV = V + T.

6. Theo cách khác, nếu dòng tiền được ước tính tăng với một tỷ lệ G không đổi, giá trị hiện tại của dòng tiền sẽ là: PV = Y0 x [(1+G)/(D-G)].

theo dddn.com.vn

Định giá công nghệ - Kỳ 4: Định giá theo số liệu

http://www.dinhgia.com.vn/?artid:1385:Dinh-gia-cong-nghe---Ky-4:-Dinh-gia-theo-so-lieu.html

Cập nhật: 15/09/2009 12:39

Định giá công nghệ - Kỳ 4: Định giá theo số liệu

Cách thường được ưa dùng để định giá công nghệ là ước tính doanh thu tương lai mà việc sử dụng công nghệ mới có thể mang lại. Để ước tính được con số này cần sử dụng phương pháp phân tích kinh tế, một kỹ thuật kinh doanh tiêu chuẩn và cũng chính là phương pháp được sử dụng để định giá các tài sản vô hình.

Cả bên mua và bên bán công nghệ cần phải có sự hiểu biết tốt về thị trường để định giá công nghệ sử dụng phương pháp định giá theo số liệu phân tích kinh tế. Quan trọng nhất trong việc sử dụng phương pháp này là đảm bảo xác định được giá trị chính xác của công nghệ. Cả bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao công nghệ đều phải tự phân tích kinh tế từ góc độ của mình và lý tưởng nhất là khi các kết quả của cả hai bên khớp nhau.

Lợi ích kinh tế mà công nghệ mới đem lại có thể được ước tính bằng cách sử dụng một số phương pháp khác nhau sau đây:

1. Xác định phần thu nhập chênh lệch sinh ra khi sử dụng công nghệ mới. So sánh thu nhập dự tính với thu nhập cần có từ tất cả các tài sản hữu hình và vô hình khác, có tính đến rủi ro liên quan đến từng loại tài sản. Sự chênh lệch giữa khoản thu dự tính và khoản thu cần có sẽ thể hiện giá trị của công nghệ.

2. Ước tính khoản thu từ mức phí kỳ vụ mà công nghệ chuyển giao sẽ đem lại. Tổng của khoản thu mức phí kỳ vụ này với lợi nhuận mà bên nhận chuyển giao có được từ công nghệ chính là giá trị của công nghệ đó.

3. Ước tính tất cả các tài sản kinh doanh và trừ đi giá trị của tất cả các tài sản hữu hình và vô hình khác, phần còn lại là giá trị của công nghệ.

4. Kết hợp các phương pháp trên hoặc sử dụng các phương pháp khác được sử dụng cho các trường hợp riêng biệt. Tỷ lệ khấu trừ thích hợp được áp dụng để định giá công nghệ có tính đến sự rủi ro.

Tất cả các phương pháp này đều đòi hỏi một sự phân tích chi tiết công nghệ cần định giá. Bước đầu tiên là xác định càng chính xác càng tốt lợi ích mà công nghệ mang lại.

Tiếp theo, cần xem xét các thành phần của công nghệ chuyển giao.

- Hồ sơ sáng chế: Các bằng sáng chế này là những sáng chế cơ bản hay chỉ là những cải tiến? Các bằng sáng chế này có hiệu lực ở tất cả những thị trường quan trọng hay không? Có khả năng nghiên cứu và tạo ra những cải tiến mới từ các bằng sáng chế này không?...

- Nhãn hiệu hàng hoá: Các nhãn hiệu gắn trên sản phẩm được sản xuất theo công nghệ chuyển giao có nổi tiếng tại thị trường được chuyển giao không, nếu có nổi tiếng đến mức nào? Các nhãn này có được bảo hộ bằng một chính sách bảo hộ thích hợp không? Bên chuyển giao đã làm những gì để quảng bá nhãn hiệu trước đó? Và bên chuyển giao đưa ra những điều kiện gì trong hợp đồng chuyển giao liên quan đến nhãn hiệu này?

- Bí quyết công nghệ: Bí quyết công nghệ có đóng vai trò quan trọng trong sản xuất và bán sản phẩm chuyển giao không? Ai sẽ trả tiền cho việc chuyển giao bí quyết? Phần nào của bí quyết công nghệ là bí mật thương mại, phần nào là phần dễ bắt chước?

- Sản phẩm bản quyền: Có dễ tạo lại các sản phẩm bản quyền hay không? Nếu đó là các sản phẩm phần mềm hoặc các chương trình cơ sở, việc cung cấp mã nguồn có hiệu quả như thế nào, và liệu có cần chỉnh sửa gì khi ứng dụng không?

Cán bộ thuộc các bộ phận sản xuất, tài chính, nghiên cứu và phát triển, phát triển thị trường cần làm việc, thảo luận với nhau để trả lời các câu hỏi trên.

Cán bộ sản xuất có thể xác định xem nguyên liệu nào, thiết bị nào là mới, và chi phí nhân công liên quan đến việc sản xuất sản phẩm kết hợp công nghệ mới, và liệu có thể sử dụng công nghệ mới trên nền cơ sở hạ tầng sẵn có hay phải thay đổi, bổ sung cho cơ sở hạ tầng, và chi phí cho sự thay đổi, bổ sung này là bao nhiêu.

Các cán bộ phòng tài chính cần xác định chi phí cần thiết để chạy thiết bị có công nghệ mới trong sản xuất, và định mức sản xuất phải là bao nhiêu để có thể có lợi nhuận. Các cán bộ phòng nghiên cứu và phát triển cần đánh giá công nghệ và các phương án thay thế khác và xác định xem cần phải có những phát triển bổ sang nào để đưa công nghệ vào sản xuất.

Phòng phát triển thị trường cần xác định các sản phẩm cạnh tranh và đánh giá triển vọng thị trường và giá bán tiềm năng của sản phẩm mới. Ước tính lượng bán của sản phẩm thường được dựa trên mô hình vòng đời sản phẩm, trong đó lượng sản phẩm bán tăng chậm trong giai đoạn giới thiệu sản phẩm, tăng nhanh trong giai đoạn giữa, và đạt đến cực đại khi vòng đời sản phẩm đã đạt đến giai đoạn trưởng thành, sau đó sẽ giảm. Thời gian và độ phát triển của vòng đời sản phẩm phụ thuộc vào sản phẩm và thị trường trong đó có sản phẩm.

Có thể ước tính dòng tiền dự tính cho suốt vòng đời của công nghệ, và có thể sử dụng một hoặc nhiều phương pháp phân tích. Dòng tiền thu của bên chuyển giao sẽ bao gồm tiền trả ban đầu, các phí kỳ vụ, và các khoản thanh toán khác đã quy định trong hợp đồng chuyển giao. Dòng tiền chi của bên chuyển giao sẽ bao gồm các chi phí cho việc chuyển giao công nghệ cho bên nhận chuyển giao, chi phí việc phát triển tiếp công nghệ, chi phí quản lý và theo dõi các hợp đồng chuyển giao, chi phí duy trì hiệu lực các bằng độc quyền, và các chi phí khác. Dòng tiền thu của bên nhận chuyển giao bao gồm thu nhập có được từ việc bán các sản phẩm có ứng dụng công nghệ chuyển giao, trong khi đó dòng chi của anh ta bao gồm các khoản thanh toán phí kỳ vụ, chi phí có việc phát triển sản phẩm và phát triển thị trường, các khoản đầu tư tư bản và các khoản khác.

Trong tất cả các phân tích, các thông tin và các khoản chi phí cụ thể đều không biết. Nhiều kỹ thuật phân tích đã được phát triển cho phép kết hợp những thông tin và chi phí chưa biết này vào trong các phân tích. Một trong những phương pháp đó là phương pháp phân tích quyết định, trong đó người ta hình dung ra chuỗi các sự kiện và các khả năng để các sự kiện đó xảy ra, từ đó hình dung và ước tính được chi phí có thể có. Các vấn đề khác cũng cần xem xét là sẽ chuyển giao hay không, các điều khoản chuyển giao, xác định các thị trường cụ thể hay không, đầu tư tư bản... Dựa vào các khả năng của từng phương án và chi phí kinh tế cần ước tính được rủi ro và tiềm năng thị trường của công nghệ.

theo dddn.com.vn

Định giá công nghệ - Kỳ 3: Định giá theo chi phí

http://www.dinhgia.com.vn/?artid:1384:Dinh-gia-cong-nghe---Ky-3:-Dinh-gia-theo-chi-phi.html

Cập nhật: 15/09/2009 12:36

Định giá công nghệ - Kỳ 3: Định giá theo chi phí

Phương pháp định giá công nghệ theo chi phí nghĩa là xem giá trị của công nghệ (hoặc một tài sản bất kỳ nào khác) là chi phí để thay thế bằng một công nghệ giống hoặc một công nghệ tương đương. Mọi người thường cho rằng giá trị của một công nghệ bằng giá của nó cộng với giá trị thương mại, nhưng thực tế lại cho thấy điều này thường không đúng.

Phương pháp định giá theo chi phí không tính đến giá trị thương mại của công nghệ, cả giá trị thương mại thực tế mà công nghệ đã có cũng như giá trị thương mại tiềm năng mà nó có thể có. Các phương pháp định giá theo chi phí có thể hữu dụng trong việc xác định xem nên mua công nghệ hay nên tự nghiên cứu phát triển công nghệ, có tính cả việc chi phí cho việc đăng ký bảo hộ độc quyền công nghệ. Ngoài ra, phương pháp định giá theo chi phí có thể được bên chuyển giao sử dụng để hỗ trợ việc xác định mức giá sàn có thể chấp nhận được trong các điều khoản của hợp đồng chuyển giao.

Một phương pháp định giá theo chi phí thường được sử dụng là định giá dựa trên tổng chi phí liên quan đến việc nghiên cứu và phát triển công nghệ. Tổng đầu tư bao gồm chi phí để phát triển công nghệ, và các chi phí để đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với công nghệ (như chi phí nộp đơn sáng chế, chi phí đại diện sở hữu công nghiệp...). Một cách khác là ước tính chi phí tái tạo lại công nghệ. Sự giảm giá trị và sự lỗi thời về chức năng kỹ thuật cũng như lỗi thời về kinh tế cũng là những yếu tố cần được tính đến. Với cả hai cách định giá theo chi phí như trên, giá chuyển giao công nghệ sẽ bằng tổng của kết quả tính được theo các cách trên cộng với chi phí chuyển giao và các khoản chi phí rủi ro khác trong đàm phán hợp đồng chuyển giao.

Chi phí cơ hội trong đầu tư công nghệ có thể là yếu tố cần tính đến khi sử dụng phương pháp định giá theo chi phí, nếu muốn. Mặc dù có cái gì đó không được chính xác, các yếu tố trong chi phí cơ hội là hữu dụng trong một số trường hợp, đặc biệt là khi cần phải lựa chọn giữa việc sẽ chuyển giao công nghệ cho người khác hay tiếp tục sản xuất sản phẩm có gắn công nghệ. Để ước tính được chi phí cơ hội, cần xác định các yếu tố thể hiện giá trị lợi nhuận trung bình sinh ra từ các nguồn của Cty và xác suất thành công trong thương mại của công nghệ. Sau đó, áp các yếu tố này vào tổng các chi phí trực tiếp cho công nghệ để xác định giá trị của các nguồn được dành cho công nghệ, cho dù thực tế nó được dùng trong một lĩnh vực khác.

Ví dụ:

Cty XYZ đã nghiên cứu phát triển và đã được cấp bằng độc quyền sáng chế đối với

P> align="justify">

Bảng 1: Chi phí nghiên cứu và phát triển quy trình hoá học của Cty XYZ (Đơn vị: nghìn USD)

một công nghệ hoá học. Chi phí liên quan đến công nghệ này được thể hiện trong Bảng 1. Điều kiện kinh doanh của Cty hiện đã thay đổi, và họ quyết định sẽ bán quy trình công nghệ này. Hãy định giá công nghệ sử dụng phương pháp định giá theo chi phí.

 

Tổng chi phí liên quan đến việc nghiên cứu phát triển và đăng ký bảo hộ công nghệ trên là 2.790.000 USD. Tuy nhiên, số tiền này cần phải được tính theo giá trị tiền USD hiện thời (giá trị tiền USD của năm thứ 5) bằng cách điều chỉnh tổng trên theo mức lạm phát như được chỉ ra trong Bảng 2.

P> align="justify">

Bảng 2: Chi phí nghiên cứu và phát triển công nghệ hoá học được điều chính tính đến yếu tố lạm phát (Đơn vị: nghìn USD)

 

Do đó, giá của quy trình công nghệ hoá học nêu trên tính theo phương pháp định giá công nghệ theo chi phí sẽ bằng 2.962.000 USD (giá này không bao gồm giá thiết bị đi kèm theo công nghệ).

theo dddn.com.vn

Định giá công nghệ - Kỳ 2: Phương pháp chia sẻ lợi nhuận

http://www.dinhgia.com.vn/?artid:1383:Dinh-gia-cong-nghe---Ky-2:-Phuong-phap-chia-se-loi-nhuan.html

Cập nhật: 15/09/2009 12:30

Định giá công nghệ - Kỳ 2: Phương pháp chia sẻ lợi nhuận

Tất cả các phương pháp định giá công nghệ đều đưa ra kết quả ước tính giá trị công nghệ theo lý thuyết. Khi chuyển giao quyền sử dụng công nghệ, lợi nhuận do công nghệ sinh ra phải được chia công bằng cho cả bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao công nghệ theo cách có thể chấp nhận được.

Việc phân chia lợi nhuận mà công nghệ mang lại trước tiên phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của công nghệ đó.

Với một công nghệ đã được phát triển đầy đủ, đã được chứng minh qua quá trình thương mại, tức ở giai đoạn đưa sản phẩm ra thị trường và thu lợi nhuận, lẽ công bằng là bên chuyển giao phải được chia lợi nhuận lên đến 50% từ công nghệ này. Trong khi đó, đối với một công nghệ chưa trải quá quá trình thử thách, ví dụ một công nghệ đã được chứng minh tốt về mặt kỹ thuật, tuy nhiên chưa xác định được nhu cầu trên thị trường, tức đã qua giai đoạn thử nghiệm công nghệ nhưng chưa hoặc mới bước vào giai đoạn áp dụng công nghệ vào sản xuất hoặc đưa sản phẩm ra thị trường, thì phần lợi nhuận của bên chuyển giao chỉ vào khoảng từ 25 đến 35%. Hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối với một công nghệ chưa được phát triển đầy đủ, tức đang trong giai đoạn (1) đến (5), có thể xác định tỷ lệ chia lợi nhuận cho bên chuyển giao là 20% hoặc ít hơn để bù cho việc rủi ro sẽ được chuyển sang cho bên nhận chuyển giao.

Để xác định tỷ lệ chia lợi nhuận thích hợp cũng cần tính đến các thị trường mà ở đó các sản phẩm được sản xuất theo công nghệ được chuyển giao sẽ được bán. Tại các thị trường có lợi nhuận cao đối với sản phẩm có công nghệ chuyển giao thì bên bán sản phẩm không cần có nhiều cố gắng để tiếp cận thị trường. Lúc đó, bên chuyển giao công nghệ cần được nhận tỷ lệ lợi nhuận cao hơn so tỷ lệ lợi nhuận từ hợp đồng chuyển giao tại các thị trường có lợi nhuận thấp với giá bán sản phẩm cao. Việc xác định mức lợi nhuận để tính mức phí kỳ vụ có thể là rất khó. Để tính tổng lợi nhuận phải dựa vào quá nhiều các thông số bao gồm giá các nguyên vật liệu thô, giá nhân công lao động... Rất có thể sẽ có nhiều bất đồng nảy sinh giữa bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao liên quan đến việc điều chỉnh các thông số để xác định lợi nhuận thuần. Giá bán cũng có thể có ảnh hưởng tới lợi nhuận.

Để giải quyết các khó khăn nảy sinh trong việc tính lợi nhuận, hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng có thể xác định các mức phí kỳ vụ theo phần trăm giá bán thực hoặc theo một vài thông số dễ định lượng khác. Việc chuyển tỷ lệ chia lợi nhuận thành phần trăm giá bán có thể áp dụng được bằng cách ước tính lãi ròng của sản phẩm có công nghệ được chuyển giao.

Cuối cùng, trong các hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng công nghệ dài hạn, thường lợi nhuận sẽ thay đổi theo thời gian và do đó tỷ lệ phân chia lợi nhuận cũng có thể được điều chỉnh lại. Nên nhớ rằng việc thoả thuận giảm tỷ lệ chia lợi nhuận theo thời gian thường dễ dàng hơn rất nhiều so với việc thoả thuận tăng các tỷ lệ này. Việc giảm tỷ lệ chia lợi nhuận theo thời gian thường có ở các dạng như giảm chung các tỷ lệ chia lợi nhuận, giảm tổng tiền trả của hợp đồng chuyển giao, ví dụ, cho từng năm, giảm giá với lượng lớn sản phẩm có công nghệ chuyển giao, hoàn một phần phí kỳ vụ cho bên nhận chuyển giao, hỗ trợ các công nghệ mới cho hợp đồng chuyển giao mà không tăng mức phí kỳ vụ, hoặc là sự kết hợp của các hoặc tất cả các phương thức trên.

theo dddn.com.vn

Định giá công nghệ - Kỳ 1: Định giá theo thị trường

http://www.dinhgia.com.vn/?artid:1382:Dinh-gia-cong-nghe---Ky-1:-Dinh-gia-theo-thi-truong.html
Cập nhật: 15/09/2009 12:01

Định giá công nghệ - Kỳ 1: Định giá theo thị trường

Trong phương pháp định giá theo thị trường, người ta phân tích các giao dịch có thể so sánh được để xác định giá trị một công nghệ. Để có được kết quả chính xác từ phương pháp này cần có các điều kiện sau: Một thị trường năng động với các công nghệ có thể so sánh được; Các công nghệ có thể so sánh được được bán và các điều khoản hợp đồng mua bán là đã biết; Các bên giao dịch độc lập và có thiện chí. Với công nghệ thuộc các lĩnh vực như: dược phẩm, hoá mỹ phẩm, giải khát... DN có thể áp dụng phương pháp định giá này để có được các kết quả chính xác nhất.

Nguyên tắc 3 - 5%: Khi chuyển giao quyền sử dụng các công nghệ quan trọng, đối với nhiều ngành công nghiệp thông thường, mức giá kỳ vụ (royalty) của công nghệ thường từ 3 đến 5% giá bán sản phẩm được sản xuất theo công nghệ được chào. Do mức giá này là phổ biến, nên bên nhận chuyển giao quyền sử dụng thường cảm thấy thoải mái với mức giá kỳ vụ này, và ngược lại, họ sẽ thấy không thoải mái với mức giá kỳ vụ cao hơn.

Chuẩn công nghiệp: Việc định giá công nghệ dựa trên các chuẩn công nghiệp là một trong những cách thường được sử dụng nhất trong chuyển giao quyền sử dụng công nghệ. Giá công nghệ trong các ngành công nghiệp cụ thể như sau:

Ngành công nghiệp máy tính: Mức giá kỳ vụ ở ngành công nghiệp máy tính phần cứng thường vào khoảng 1-5%, bị ảnh hưởng bởi việc IBM áp dụng tỷ lệ này trong chính sách chuyển giao quyền sử dụng của họ năm 1988. Trong khi đó, các hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng công nghệ phần mềm máy tính lại có thể có các mức giá kỳ vụ rất cao (đến 25%) do lãi ròng của các sản phẩm phần mềm này lớn. Chương trình cơ sở, bán kèm cùng với phần cứng máy tính, thường được chuyển giao quyền sử dụng với giá ít nhất là từ 0,5 đến 1 USD một bản sao.

Ngành công nghiệp công nghệ sinh học: Các bên thương lượng hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng ngày càng thích thể hiện mức phí kỳ vụ ở dạng tỷ lệ chia lợi nhuận thuần trước thuế hơn là ở dạng phần trăm theo giá bán lẻ, và tỷ lệ chia lợi nhuận đối với ngành công nghệ này thường ở mức 50/50, nếu tính thành mức phí kỳ vụ thì tương đương từ 8 đến 12% giá bán lẻ.

Ngành công nghiệp ô tô: mức giá kỳ vụ đối với các công nghệ được mua vào thường dưới 5%, chủ yếu là dưới 2%. Đối với các công nghệ được bán, mức giá kỳ vụ thấp và thường là ở ngưỡng từ 5 đến 10%.

Ngành công nghiệp chăm sóc sức khoẻ: mức giá kỳ vụ trong các hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng công nghệ đối với các thiết bị chăm sóc y tế thường là từ 2 đến 10%, và đối với các hợp đồng bán công nghệ thường là từ 5 đến 10%.

Ngành công nghiệp điện gia dụng: các mức giá kỳ vụ thường thấp do khối lượng sản phẩm đồ gia dụng được sản xuất và bán ra rất lớn và lợi nhuận thuần thấp và thường là dưới 1% (đối với các sản phẩm có giá bán cao) và đến khoảng 3% (đối với các sản phẩm có giá bán thấp).

Mức giá kỳ vụ đối với các công nghệ có kết hợp phần mềm thường nằm trong khoảng từ 0% (ví dụ cho việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu Dolby trên các sản phẩm máy cassett compact) đến tận 50% (đối với các sản phẩm là phần mềm trò chơi điện tử).

Đấu giá: Đấu giá có lẽ là phương pháp đơn thuần nhất để xác định giá trị thị trường của một công nghệ. Theo lý thuyết, giá cao nhất được trả sẽ phản ánh đúng nhất giá trị thị trường của công nghệ mà không cần sử dụng bất cứ phương pháp định giá nào khác.

 

P> align="justify">

Định giá công nghệ quy trình sản xuất sản phẩm X của Cty TL, khi Cty này định chuyển giao quyền sử dụng cho Cty NOP

(Sử dụng phương pháp định giá theo thị trường)

1. Cty AIP vừa chuyển giao quyền sử dụng một quy trình đã được cấp bằng độc quyền sáng chế, tương tự như quy trình của Cty T.L, với phí trả ban đầu là 50,000 USDmức giá kỳ vụ là 3% giá bán lẻ của sản phẩm. Bằng độc quyền công nghệ của Cty AIP hết hiệu lực vào 2010.

2. Tổng doanh số của Cty AIP đối với sản phẩm được sản xuất theo quy trình chuyển giao quyền sử dụng ước tính là 2.000.000 USD năm 2006 và sẽ tăng 20% mỗi năm trong các năm sau đó.

3. Quy trình hoá học của Cty TL giúp giảm 15% chi phí sản xuất so với quy trình của AIP, và Cty NOP ước tính lượng sản phẩm sản xuất theo quy trình chuyển giao quyền sử dụng sẽ tăng 40% so với Cty AIP. Bằng độc quyền sáng chế của "X TL" sẽ hết hiệu lực vào năm 2009.

Vì bằng độc quyền sáng chế AIP sẽ hết hiệu lực vào năm 2010, giá trị hiện thời sẽ tương đương với giá trị dòng tiền mặt trong 5 năm đầu tiên. Sử dụng tỷ lệ khấu trừ là 20%, giá trị hiện thời sẽ là 250.000 USD.

Tiếp theo, số tiền này phải được điều chỉnh để phản ánh sự khác nhau giữa hai quy trình. Trước hết, bằng sáng chế "X TL" sẽ hết hiệu lực trước bằng AIP 1 năm, do đó cần tính lại giá trị hiện thời của dòng tiền mặt chỉ cho 4 năm đầu, và giá trị hiện thời sau khi đã được tính lại là 210.000 USD. Quy trình công nghệ "X TL" làm giảm 15% chi phí sẽ làm tăng giá trị của nó, nhưng lợi nhuận tăng lên này cần được chia công bằng cho "X TL" và NOP. Giả sử rằng tỷ lệ chia công bằng là 50/50, thì giá trị hiện thời đã được điều chỉnh sẽ tăng 7,5% và thành 225.750 USD. Cuối cùng, vì Cty NOP tăng công suất được 40% khi áp dụng công nghệ chuyển giao quyền sử dụng nên giá trị hiện thời một lần nữa cần điều chỉnh tăng lên (40%) để phản ánh dòng royalty dự tính cao hơn. Giá trị hiện thời sẽ là 316.050 USD, tức khoảng 5,1 tỷ đồng VN.

(Lưu ý: các số liệu và tên sản phẩm trên đây đã được thay đổi để đảm bảo bí mật kinh doanh của các Cty)

theo dddn.com.vn

Công nghệ thẩm định giá

http://translate.google.com.vn/translate?hl=vi&langpair=en%7Cvi&u=http://www.iphandbook.org/handbook/ch09/p02/
Chương NO.  9,2 

Công nghệ thẩm định giá: Giới thiệu

Robert H. Potter , Senior Associate, Chiến lược Nông nghiệp & Công nghệ sinh học, Inc, Canada

Tóm tắt

Chương này giải thích những điều cơ bản của cách khác nhau để ước tính giá trị của một công nghệ mới, tập trung vào tầm quan trọng của thỏa thuận về giá trị trước khi hoàn tất một thỏa thuận chuyển giao công nghệ. Thật vậy, giá trị chỉ đơn giản là số tiền thỏa thuận giữa hai bên đến. Mặc dù có rất nhiều cách để đặt một giá trị trên một công nghệ, hầu hết các thoả thuận cấp phép tập trung vào thuế tài nguyên, vì nó lây lan rủi ro giữa các nhà cung cấp công nghệ và phát triển. Tỷ lệ phần trăm được phân công để trả tiền bản quyền có thể thương lượng. Một số yếu tố sẽ ảnh hưởng đến giá trị tiền bản quyền: mức độ của nhu cầu thị trường, cải thiện công nghệ có thể mang đến sản phẩm cuối cùng, có hay không đầu tư khác sẽ được cần thiết để phát triển sản phẩm cuối cùng, và quan trọng nhất, dự đoán tỷ lệ hấp thụ trên thị trường . Một số hiểu biết về các yếu tố này, hoặc ít nhất là các thủ tục được sử dụng để ước tính, sẽ tăng cường khả năng đàm phán một thỏa thuận rằng cả hai sẽ giúp mang lại công nghệ cho thị trường và nuôi dưỡng mối quan hệ giữa các bên, do đó tạo điều kiện thuận lợi cho bất kỳ thoả thuận chuyển giao công nghệ trong tương lai.

1. Giới thiệu

Giá trị là gì và kỹ thuật đánh giá là gì? Giá trị là những gì một người mua sẵn sàng và một người bán sẵn sàng thoả thuận làm cơ sở cho việc trao đổi tài sản hoặc trong trường hợp của chúng tôi, sở hữu trí tuệ (IP) quyền. Điểm quan trọng là tìm kiếm một giá trị cụ thể là dễ chịu cho cả người mua và người bán. Nhiệm vụ đầu tiên, và là một trong những khó khăn nhất, được gán các giá trị thực tế (các đối tác có thể đồng ý) để các yếu tố khác nhau trong hệ thống.

Đơn giản chỉ cần đặt, xác định giá trị là quá trình của dự toán. Hai bên thoả thuận giá trị cho một sản phẩm hoặc tài sản trí tuệ sẽ cho phép chuyển từ người bán sang người mua. Số người sử dụng nhiều kỹ thuật để đạt được giá trị này. Một kịch bản xác định giá trị hoàn hảo sẽ là một nơi mà cả người mua và người bán đi bộ mỗi suy nghĩ nó đã giải quyết tốt nhất.

Mặc dù chúng tôi không thể nhận ra nó, chúng tôi sử dụng kỹ thuật xác định giá trị mỗi ngày. Ví dụ, một cá nhân có thể không ngần ngại trả $ 6 cho một hamburger, nhưng chắc chắn không phải là sẵn sàng trả 50 USD cho hamburger. Điều này là bởi vì chúng ta nhận thức giá trị của bánh mì thịt kẹp trong một phạm vi hạn chế. Những lợi ích mà chúng ta xuất phát từ bánh mì thịt kẹp thể sẽ không phải chi phí nhiều hơn số tiền chúng tôi sẵn sàng để chi tiêu, nếu không, người ta sẽ ăn ở nơi khác. Từ quan điểm của người mua, các chi phí, lợi ích, và các lựa chọn thay thế cạnh tranh xác định những gì chúng tôi sẽ trả, và, do đó, xác định một giá trị. Giá trị đó sẽ thay đổi tùy thuộc vào nơi mà chúng tôi đang có, chúng tôi đói như thế nào, và cách xa gần nhất thay thế tốt hơn là. Từ quan điểm của người bán, các câu hỏi là: Làm thế nào tôi có thể tính phí cho hamburger? Nhu cầu về bánh mì kẹp thịt của tôi là gì? Làm thế nào nhiều lựa chọn thay thế khác nhau? Làm thế nào là sản phẩm của tôi khác biệt và vượt trội so với các lựa chọn thay thế?

Chương này cung cấp kiến ​​thức nền tảng về công nghệ xác định giá trị đặc biệt liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong nông nghiệp. Chương này nhằm mục đích nâng cao nhận thức của độc giả trong những vấn đề quan trọng và phương pháp có liên quan đến công nghệ xác định giá trị khi đàm phán việc bán quyền đối với một công nghệ mới cũng như trong các trường hợp khác.

2. Xác định giá trị sở hữu trí tuệ

Nhiều năng lượng đã được dùng để xác định phương pháp định giá tài sản trí tuệ, công nghệ, hoặc các sản phẩm. Tất cả các phương pháp tiếp cận có yêu cầu số tiền khác nhau của dữ liệu và phục vụ cho mục đích khác nhau (hạn chế vốn có, bất kể của cách tiếp cận). Một tổng quan về các phương pháp tiếp cận phổ biến nhất để xác định giá trị công nghệ được cung cấp trong chương này. Cuộc thảo luận chi tiết hơn được tìm thấy ở nơi khác trong Sổ tay. 1

Việc định giá tài sản trí tuệ có xu hướng là rất phức tạp, kể từ khi nhiệm vụ xác định giá trị liên quan đến việc xác định giá trị hiện tại đối với một công nghệ hoặc sản phẩm trong tương lai. Phương pháp khác nhau đã được phát triển mà sử dụng số tiền nhiều hay ít của lý thuyết kinh tế. Cuối cùng, như là giá trị thường sẽ là một con số thỏa thuận, những gì là quan trọng nhất là tìm một phương pháp mà cả hai bên đồng ý sẽ sản xuất một giá trị mà họ có thể chấp nhận.

Các phương pháp phổ biến nhất của định giá là một quá trình dòng chảy tiền mặt giảm giá, tính toán giá trị hiện tại của doanh thu trong tương lai. Giá trị hiện tại phản ánh giá mua tài sản trí tuệ là sẵn sàng trả tiền ngay bây giờ, để nhận được tiền mặt dự kiến từ doanh số bán hàng trong tương lai của sản phẩm. Biến khác nhau và các yếu tố có thể được xây dựng vào điều này, chẳng hạn như các rủi ro của công nghệ không cung cấp trở lại hứa hẹn, nhưng rõ ràng nó là khó để ước tính chính xác dòng tiền tương lai từ tài sản trí tuệ hoặc từ một công nghệ chưa được kiểm tra chưa phát triển,. Một trong những kỹ hơn một sản phẩm cuối cùng, thực tế hơn sẽ là ước tính của dòng tiền trong tương lai. Chờ đợi cho đến khi gần kết thúc phát triển sản phẩm để thương lượng bản quyền có thể, tuy nhiên, cho tăng lên vấn đề nghiêm trọng trong việc đạt được một giải pháp thương lượng.

Hầu hết các mô hình định giá dựa trên dữ liệu thị trường, trong đó, tốt nhất, chỉ có thể cung cấp một loạt các giá trị có thể xảy ra. Đối với một sản phẩm mới mang tính cách mạng, dữ liệu thị trường trực tiếp thường không có sẵn và proxy (hoặc các sản phẩm hiện có trên thị trường) được sử dụng như thay thế. Sự phức tạp của định giá phát sinh từ các thách thức trong việc xác định các proxy hữu ích, phù hợp. Các dữ liệu thích hợp hơn 1 sử dụng, xác định giá trị sẽ càng chính xác.

Hơn nữa, giá trị tài sản cá nhân và cụ thể sẽ rất khác nhau. Sự hiểu biết làm thế nào các giá trị cụ thể được thống kê phân phối sẽ giúp rất nhiều giá trị ước tính, kể từ khi bao gồm một xác suất nhận được một quyết định trở lại quy định hỗ trợ. Bất cứ nơi nào một thành phần cá nhân có một loạt các giá trị có thể, biết phân bố thống kê trên phạm vi này có thể làm cho việc định giá tổng thể chính xác hơn và cũng cho phép một để ước tính xác suất mà giá trị này thực sự sẽ đạt được.

Các phần sau đây xác định một số phương pháp xác định giá trị và cung cấp một lời giải thích ngắn của mỗi. Để minh họa điều này, phương pháp tiếp cận từng được giải thích với tham chiếu đến một cuộc đàm phán đang diễn ra, hư cấu, giữa Đại học Costa Rica và Mer Seeds SA de CV, trong một giấy phép sử dụng thương mại cho một gen kháng bệnh thối rễ bị cô lập tại trường đại học. Gen này đã được chuyển vào một dòng của một loại cây trồng gốc được gọi là mer, Mer Seeds dự định để vượt qua với các dòng giống ưu tú của họ.

2.1 Chi phí phương pháp tiếp cận

Cách tiếp cận chi phí dựa trên bao gồm chi phí phát triển một sản phẩm mới. Sử dụng phương pháp này, Đại học Costa Rica sẽ tìm kiếm để tính lệ phí một thời gian để trang trải tất cả các nghiên cứu và chi phí cấp bằng sáng chế có thể cô lập gen và sản xuất mer chống thối gốc biến đổi gen. Trong khi phương pháp này là có liên quan để định giá một bài viết được sản xuất để bán, cách tiếp cận hiếm khi được sử dụng để gán một giá trị cho một phần của sở hữu trí tuệ, bởi vì chi phí để phát triển một cái gì đó thường không liên quan đến giá trị của bất kỳ sở hữu trí tuệ chứa. Một phiên bản của phương pháp này là để tính toán chi phí dự kiến ​​trong tương lai của phát triển tương tự như công nghệ có hiệu lực, bằng cách sử dụng tiền thu được từ việc bán công nghệ này để trả tiền cho việc phát triển một trong những tiếp theo. Cách tiếp cận này, tuy nhiên, là rất chủ quan và khó khăn để biện minh.

Tuy nhiên, biết các chi phí phát triển một công nghệ cụ thể thường là hữu ích và có liên quan khi tính toán các yếu tố đầu vào tương đối của các bên tham gia vào một liên doanh. Nếu, thay vì cấp giấy phép một công nghệ, một tổ chức tham gia vào một liên doanh để phát triển một sản phẩm, đầu tư ban đầu vào các liên doanh thường kiểm soát cổ phần được giao cho mỗi bên. Một tổ chức trường đại học hoặc nghiên cứu không có nguồn lực đầy đủ tài chính để phát triển một sản phẩm từ công nghệ, nhưng các tổ chức chính đáng có thể yêu cầu chia 1 liên doanh dựa trên đầu tư trong dự án lên đến thời điểm này, cũng như giá trị tiềm năng của sản phẩm .

2.2 Thu nhập phương pháp tiếp cận

Một cách tiếp cận thu nhập thuần túy được thực hiện bằng cách chiết khấu doanh thu trong tương lai dự kiến (dòng tiền) một vài năm trong tương lai. Trong kịch bản của chúng tôi, cách tiếp cận này được sử dụng khi các trường Đại học Costa Rica đề nghị Mer Seeds SA de CV bao nhiêu nó sẽ có sẵn sàng trả cho một trở lại trong tương lai nhất định (ví dụ, 10.000.000 $ trong thời gian 10 năm). Hạn chế lớn để tiếp cận này là có thể là không có bán hàng, thị trường, hoặc dữ liệu chi phí để dự đoán doanh thu trong tương lai. Hơn nữa, phương pháp dựa chủ yếu vào phân bổ rủi ro: xác định những gì rất có thể là một trở lại đáng thất vọng (hoặc thậm chí không trở lại tại tất cả) và những người có nguy cơ này, các trường đại học hoặc công ty? Ước tính nguy cơ là rất quan trọng để xác định xem có nên đầu tư vào một công nghệ mới, nhưng chúng quá thường xuyên dựa trên ít hơn so với cảm giác ruột.

2.3 Thị trường tiếp cận

Cách tiếp cận thị trường đòi hỏi phải tìm kiếm một công nghệ tương tự hoặc tương đương đang được đánh giá. Trong kịch bản của chúng tôi, Đại học Costa Rica sẽ tìm kiếm khác các mer cây kháng bệnh thối rễ trên thị trường và xác định có bao nhiêu nông dân đang sử dụng và trả tiền cho hạt giống. Vì vậy, việc định giá sẽ dựa vào việc tìm kiếm dữ liệu đầy đủ về các giao dịch tương tự để đi đến một ước tính chính xác của các giá trị của sản phẩm mới. Sự yếu kém vốn có của phương pháp này là khó khăn trong việc thu thập dữ liệu cho một sản phẩm thực sự mới lạ.

2.4 lai phương pháp tiếp cận

Cách tiếp cận phổ biến hơn là sử dụng một lai của thu nhập và thị trường các phương pháp xác định giá trị. Điều này kết hợp các lợi ích của việc so sánh thị trường và quen thuộc của cộng đồng doanh nghiệp với phương pháp thu nhập. Trong ví dụ của chúng tôi, Mer SA de CV sẽ sử dụng kinh nghiệm của mình với các sản phẩm tương tự để ước lượng những người nông dân sẽ trả tiền và thị trường cho hạt giống sẽ phát triển nhanh như thế nào để tạo ra thu nhập ước tính. Phương pháp này thường áp dụng nơi có trước kinh nghiệm và thông tin đầy đủ. Trong trường hợp sản phẩm đang được phát triển trong nhà (ví dụ, trong một công ty lớn thực hiện tất cả hoặc hầu hết các nghiên cứu và phát triển), tính toán giá trị hiện tại ròng của một sản phẩm mới được dựa trên phương pháp lai này. Quyết định trên các sản phẩm tài trợ được thực hiện bằng cách ước lượng một giá trị hiện tại ròng tối thiểu nhất định.

2,5 phương pháp tỷ lệ thuế tài nguyên

Bởi vì tiền bản quyền cho phát minh ra một lợi nhuận trên doanh số bán hàng của sản phẩm cuối cùng, tiền bản quyền thường được sử dụng để chia sẻ rủi ro giữa các nhà phát minh và phát triển. Bên thường sử dụng một tỷ lệ tiền bản quyền đã được thoả thuận trong quá khứ cho công nghệ tương tự, tỷ lệ mà sau đó được áp dụng cho các dòng doanh thu dự kiến. Do tính chất chia sẻ rủi ro của phương pháp này (nếu sản phẩm không trở thành một thành công, số tiền thuế tài nguyên là thấp), đây là một cách tiếp cận phổ biến công nghệ cấp giấy phép. Nhưng cách tiếp cận không phải luôn luôn cho kết quả xác định giá trị bản thân công nghệ. Thật vậy, tỷ lệ tiền bản quyền thường được xác định tùy tiện, với mối quan hệ ít hoặc không có giá trị gia tăng công nghệ có thể cung cấp cho sản phẩm. Ví dụ, trong kịch bản của chúng tôi, nếu ban đầu thỏa thuận hợp tác nghiên cứu giữa trường Đại học Costa Rica và Mer Seeds giới hạn các trường đại học được một khoản tiền tối đa 5% tổng doanh thu, sau đó, nếu công nghệ làm tăng giá trị của sản phẩm hạt giống Mer bởi nhiều hơn thế, trường đại học mất. Một vấn đề khác với tự ý áp dụng tỷ lệ tiền bản quyền, trong trường hợp này, nếu các Mer hạt đã kết hợp một số đặc điểm trong một loạt, sau đó công ty có thể là không thể đủ khả năng để trả tiền bản quyền 5% cho mỗi nhà cung cấp công nghệ nếu kết hợp thêm vào giá trị là không đủ .

3. Hệ thống sản xuất

Để đánh giá chính xác một công nghệ mới, hệ thống sản xuất hiện có phải được hiểu để nhìn thấy nơi mà các công nghệ mới sẽ được áp dụng. Trong khi hệ thống nông nghiệp khác nhau do điều kiện đất đai khí hậu và địa phương, các dữ liệu tồn tại trên đầu vào (chi phí) và đầu ra (lợi ích) như trong bất kỳ lĩnh vực. Bởi vì các mối tương quan phức tạp giữa các thị trường nông nghiệp, cạnh tranh là khó khăn để ước lượng, nhưng dữ liệu không tồn tại sau khi các giả định cơ sở. Những sản phẩm nông nghiệp hiện đại dựa nhiều hơn và nhiều hơn nữa về công nghệ sinh học, một lĩnh vực tương đối mới, mà có rất ít thông tin và nguy cơ đáng kể rằng sẽ không có sản phẩm ở tất cả, xác định giá trị trở nên khó khăn hơn. Để minh họa sự phức tạp của hệ thống nông nghiệp, chúng tôi sử dụng một đầu vào / đầu ra hoặc chi phí / lợi ích mô hình dựa trên thu hoạch của mer (xem hình 1).

Sơ đồ mô tả lợi nhuận trung bình cho mỗi ha mer ở ​​châu Mỹ Latinh. Chi phí đầu vào, chẳng hạn như phân bón, hạt giống và thuốc trừ sâu, đã được bắt nguồn bằng cách chuyển đổi sang đô la Mỹ từ các chi phí trung bình ở châu Mỹ Latinh của những mặt hàng. Tương tự như vậy, năng suất tấn (MT) đã tính toán bằng cách lấy con số sản lượng bảo thủ và khấu trừ sau thu hoạch và dịch hại tổn thất trung bình đến năng suất cuối cùng cho mỗi ha cho các nông dân trung bình mer. Lợi nhuận được phân chia giữa những người từ mer được tiêu thụ trong nước (trong nước) và những người từ mer được xuất khẩu (xuất khẩu). Trên cơ sở của mô hình này, chi phí sản xuất là US $ 90 và trở lại là 220 đô la Mỹ. Một sản phẩm mới làm giảm đầu vào (thuốc trừ sâu, trong trường hợp này, rễ thối kháng mer) có thể được tính toán để tăng lợi nhuận bằng số tiền chi phí thuốc trừ sâu.

4. Đánh giá Tài nguyên IP

Đôi khi, tất cả các nguồn tài nguyên IP của một công ty hoặc tổ chức cần phải được định giá. Đánh giá các nguồn tài nguyên này có thể cung cấp một giá trị cho toàn bộ công ty, bao gồm cả sở hữu trí tuệ và tài nguyên vật lý của nó, hoặc nó có thể tiết lộ các dữ liệu vào một công ty đang đầu tư vào phát triển một sản phẩm, không bao gồm các công nghệ đang được đàm phán. Trong ví dụ hyphothetical của chúng tôi, Mer Hạt có thể trỏ đến sở hữu trí tuệ mà nó đã được sở hữu, ví dụ, hiện có mer giống, cho thấy rằng công ty đang đầu tư nguồn lực đáng kể vào phát triển sản phẩm mới và cũng để cho thấy rằng gen được lấy từ trường đại học sẽ được giá trị chỉ là một phần của tổng giá trị gia tăng. Biết con số như vậy là có liên quan cho các cuộc đàm phán liên doanh.

Lưu ý: Các phiên bản trực tuyến của Handbook ( www.ipHandbook.org ) có thể tải về Microsoft ® Excel bảng tính, mà người đọc có thể sử dụng cho mô hình chi phí / thu nhập kịch bản.

Một biến chứng trong các tính toán này là cần thiết để giá trị tài sản trí tuệ nonformal: bí quyết, kinh nghiệm và chuyên môn mà cư trú trong công ty, và nhân viên của mình, và có thể không được bảo vệ bởi bằng sáng chế và nhãn hiệu hàng hoá. Tổ chức chỉ xem xét giá trị của sở hữu trí tuệ chính thức đứng để mất từ ​​nhìn hình thức sở hữu trí tuệ.

4.1 quá mức thu nhập / giá trị còn lại

Thu nhập dư thừa / cách tiếp cận giá trị còn lại xác định giá trị trên toàn bộ một doanh nghiệp, chứ không phải là một công nghệ duy nhất. Cách tiếp cận này là thích hợp nếu một công ty có chỉ là một chính-nền tảng công nghệ và kinh doanh của mình hoàn toàn dựa trên các sản phẩm liên quan đến công nghệ đó. Sử dụng một khoảng thời gian năm năm hoặc nhiều hơn ngay lập tức trước ngày định giá, một trở về tỷ lệ phần trăm được gán với giá trị trung bình hàng năm của các tài sản hữu hình được sử dụng trong một doanh nghiệp. Trở lại này được khấu trừ từ thu nhập trung bình của doanh nghiệp trong cùng thời kỳ, và phần còn lại, nếu có, được coi là số tiền của thu nhập trung bình hàng năm từ các tài sản vô hình của doanh nghiệp. Vì phương pháp này được dựa trên dữ liệu quá khứ, nó không phải là nhất thiết phải hữu ích cho việc đánh giá một công nghệ mới, nhưng nó có thể được sử dụng với giá trị công nghệ hiện có của một công ty. mà sẽ cho phép xác định bao nhiêu của một bên một đầu vào đang đạt được trong đàm phán. Ví dụ, các Mer hạt giống có thể sử dụng phương pháp này để đánh giá nguồn gen hiện có của mình để hiển thị giống của dự án biến đổi gen càng nhiều do nguồn gen của họ là các gen chuyển. Tuy nhiên, lỗ hổng chính trong mô hình này là giả định rằng thu nhập dư thừa ở trên và vượt ra ngoài lợi nhuận trên tài sản hữu hình là chỉ do tài sản vô hình. Suy nghĩ như thế có thể dẫn đến một lỗi trong xác định giá trị bởi vì nó giả định rằng các doanh nghiệp đang khai thác tối đa của tất cả các tài sản trí tuệ của mình.

4,2 Công nghệ yếu tố phương pháp

Phương pháp yếu tố công nghệ là một sửa đổi của thu nhập hoặc thu nhập vượt quá phương pháp tiếp cận để giải quyết những thiếu sót của các phương pháp tiếp cận bằng cách trực tiếp đo lường sự đóng góp của công nghệ tổng doanh thu của doanh nghiệp. Phương pháp công nghệ yếu tố có thể được sử dụng trên một công nghệ tại một thời gian để loại bỏ những hạn chế của phương pháp thu nhập dư thừa, trong đó toàn bộ các thiết lập của tài sản vô hình có giá trị và gộp lại với nhau. Các phương pháp yếu tố công nghệ có thể được áp dụng cho Mer SA de CV nếu nó được bán nhiều sản phẩm nông nghiệp hơn so với chỉ hạt giống mer và nếu hầu hết các sản phẩm này có một đầu vào công nghệ tương đối thấp (ví dụ, nếu công ty phân phối hóa chất nông nghiệp sản xuất lớn đa quốc gia Tổng công ty). Trong trường hợp này, một bức tranh tổng thể sẽ không cung cấp cho các giá trị thực sự của giá trị của nguồn gen của công ty.

4.3 Các tùy chọn giá cả các phương pháp

Phương pháp định giá lựa chọn ước tính giá trị của công nghệ tại thời điểm nó được coi là thành công và sau đó tính toán xác suất thành công sơ bộ dọc theo con đường thương mại hóa. Trong root-chống thối-mer ví dụ nghiên cứu cơ bản, đã được thực hiện, nhưng vẫn có khả năng rằng công nghệ sẽ không làm việc trong lĩnh vực này, mà người nông dân sẽ không được chuẩn bị sẵn sàng để mua nó, hoặc là một đối thủ cạnh tranh sẽ cung cấp một sản phẩm tốt hơn (chẳng hạn như một giá rẻ thuốc diệt nấm). Nó cũng có thể biến đổi gen mer sẽ không được chấp thuận cho an toàn sinh học hoặc các lý do an toàn thực phẩm. Xác suất của sự thành công ở mỗi bước trong quá trình này là rất khó để tính toán, nhưng với mỗi bước, giá trị của công nghệ có hiệu quả tăng lên khi nguy cơ suy giảm dần. Để sử dụng mô hình này cho các ước tính ban đầu của giá trị, công nghệ phải được xác định rõ và phân tích thống kê dữ liệu lịch sử phải là đáng kể, đủ để cho phép thẩm định để chỉ định xác suất để công nghệ này là nó đi từ bước này sang bước tiếp theo. Phương pháp này được áp dụng để bắt đầu các công ty trong vòng đầu tiên của họ về tài chính, và cũng cho các công ty phát triển công nghệ có nguy cơ cao, chẳng hạn như dược phẩm.

4,4 Công nghệ rủi ro / phần thưởng phương pháp

Phần thưởng rủi ro công nghệ / phương pháp sử dụng giá trị của doanh nghiệp dựa trên công nghệ khoảng so sánh như là một proxy cho các giá trị của bằng sáng chế, và sau đó trừ đi từ con số này số lượng tiền mặt cần thiết để tiếp tục phát triển công nghệ cho một giai đoạn thương mại. Như vậy, Mer SA de CV đầu tiên sẽ tính toán giá trị công ty có thể đạt được từ công nghệ này và sau đó xem xét đầu tư cần thiết để đưa công nghệ ra thị trường. Sử dụng con số này, công ty sẽ quyết định có để thương mại hóa sản phẩm và cho dù phải trả các trường Đại học Costa Rica có thể được dành. Một nhược điểm của phương pháp này là giả định rằng giá trị của các công ty công nghệ dựa trên chỉ phản ánh giá trị của công nghệ, mà bỏ qua nhiều yếu tố khác.

5. Nhận con nuôi

Một yếu tố rất quan trọng trong việc xác định giá trị thị trường của một sản phẩm là bao nhiêu sản phẩm được bán hay sử dụng và những gì tỷ lệ nhu cầu cho sản phẩm phát triển và gia tăng. Một thành công của sản phẩm phụ thuộc không chỉ vào số của những người thử nó một lần, nhưng số lượng người sử dụng lặp lại. Điều này được gọi là quá trình nhận con nuôi, trong đó một sản phẩm mới trong thị trường là một sản phẩm được thành lập (hoặc, trong một số trường hợp, lỗi thời).

Hình 2 là một đường cong áp dụng tổng quát cho một công nghệ mới hoặc sản phẩm giả thuyết. Điều quan trọng là tốc độ mà một sản phẩm được đưa lên có ảnh hưởng lớn đến doanh thu mà nhà phát triển của sản phẩm. Trong trường hợp này, như thường xảy ra, ban đầu hấp thu thấp, và thông qua phát triển chậm như con người trở nên nhận thức của sản phẩm, hãy thử nó ra, và sử dụng nó. Sớm chấp nhận cho thấy giá trị tiềm năng của sản phẩm, và dần dần người tiêu dùng bắt đầu sử dụng nó. Khi người dùng thấy được lợi ích, sản phẩm lan khắp thị trường. Khi sản phẩm mới phương pháp thâm nhập thị trường đầy đủ, tỷ lệ hấp thu chậm, luôn có những người hoặc là rất muộn trong việc áp dụng hoặc sẽ không bao giờ chấp nhận sản phẩm. Tại một số điểm sản phẩm cạnh tranh khác có thể nhập vào thị trường và làm giảm thị phần, hoặc công nghệ mới hơn có thể phát sinh thay thế các sản phẩm hoàn toàn. Các đường cong thực tế, do đó, sẽ có nhiều phức tạp hơn so với hình 2 cho thấy.

Trong thực tế, người nông dân có khả năng để lo lắng ban đầu đầu tư mạnh vào một sản phẩm nông nghiệp, chẳng hạn như một loạt các hạt giống mới. Một số sẽ thử nó trên một phần đất của họ và, nếu họ cảm thấy đó là giá trị đầu tư, họ sau đó có thể trồng hạt giống. Nông dân khác có thể thấy điều này và quyết định để thử ra các hạt giống mình. Khi một số tiền nhất định của hạt giống đang được trồng, tỷ lệ nhận con nuôi sẽ tăng lên. Tuy nhiên, có hầu như luôn luôn sẽ là một số nông dân hoặc là sẽ trì hoãn việc áp dụng hoặc không áp dụng ở tất cả, bởi vì họ thích phương pháp truyền thống, không muốn thay đổi, hoặc có lẽ vì đất của họ là chất lượng kém như vậy mà năng suất tăng không bao gồm gia tăng giá.

Tính toán giá trị của một sản phẩm bằng cách làm cho doanh số bán hàng dự (các phương pháp tiếp cận thu nhập), do đó, hãy xem xét không chỉ là tổng diện tích đất mà trên đó một hạt giống có thể được sử dụng, nhưng cũng bao gồm một cảm giác thực tế của tỷ lệ mà tại đó các vùng phủ sóng mở rộng để đạt được tổng số. Trong khi đó, các sản phẩm khác cũng có khả năng trở thành có sẵn, các sản phẩm gốc sẽ không giữ lại diện tích của nó vô thời hạn.

6. Kết luận

Khi các cuộc thảo luận ở trên cho thấy, không có phương pháp xác định giá trị công nghệ vũ trụ tồn tại. Trong thực tế, các phương pháp khác nhau thường được sử dụng trong vòng một tổ chức. Các phương pháp lựa chọn phụ thuộc vào các loại công nghệ trong câu hỏi và cho dù là một trong những người mua hay người bán công nghệ một công nghệ. Cuối cùng, tuy nhiên, hầu hết các vấn đề tính chính xác của các ước tính và giả định về việc liệu một sản phẩm sẽ là một thành công và bao nhiêu người sẽ trả tiền cho nó. Ước tính kích thước của các thị trường tiềm năng và tỷ lệ áp dụng cho sản phẩm đều quan trọng trong quá trình này.

Đàm phán là một phần lớn đến một giá trị cho công nghệ của bạn, nhưng hãy nhớ rằng việc phát triển tài sản trí tuệ vào sản phẩm thương mại thông qua cấp giấy phép và ra cấp giấy phép không phải là một trò chơi tổng bằng không. Cả người mua và người bán đang tìm kiếm để có được một cái gì đó tốt khỏi thỏa thuận. Và đây là nhiều giao dịch đã được tìm kiếm win-win.

Ghi chú

Tất cả các trang web tham chiếu đã được truy cập lần cuối giữa 1 và 10 tháng mười năm 2007.

1 Xem, cũng trong Cuốn sổ tay này, chương 9,3 R Razgaitis.

Potter RH. Năm 2007. Công nghệ thẩm định giá: Giới thiệu. Trong quản lý tài sản trí tuệ trong Y tế và đổi mới nông nghiệp: Một cuốn sổ tay thực hành tốt nhất (eds. Một Krattiger, RT Mahoney, Nelsen L, et al.). MIHR: Oxford, Vương quốc Anh, và PIPRA: Davis, Hoa Kỳ có sẵn trực tuyến tại www.ipHandbook.org .

© 2007. RH Potter Chia sẻ Nghệ thuật quản lý IP: Phô-tô-cop-pi và phân phối thông qua Internet cho các mục đích phi thương mại được cho phép và khuyến khích.

(Chơi cho vui) AIRDROP CHAINGE FINANCE - dự án xây dựng ứng dụng ngân hàng số cho mọi người

 Không hiểu lắm về cái này, tuy nhiên thấy quảng cáo khá nhiều, lại chỉ cung cấp vài thông tin cá nhân (mà mấy ông lớn như facebook với goog...